Môi trường và xử lý nguồn nước trong nuôi cá lồng ở đầm Cầu Hai, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế./Water environment and treatment for fish cage culture in Cầu Hai lagoon, district Phú Lộc, province Thừa Thiên Huế.

  • Nguyễn Ngọc Châu
  • Hồ Thắng
  • Mai Chiếm Tuyến

Tóm tắt

Thông qua số liệu thứ cấp và sơ cấp (bằng điều tra 150 hộ nuôi cá lồng theo phương pháp ngẫu nhiên phân tầng theo tỷ lệ) kết quả nghiên cứu cho thấy nuôi cá lồng ít nhiều gây ảnh hưởng đến môi trường do việc sử dụng thức ăn và quy mô nuôi. Ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế môi trường nước trên đầm Cầu Hai thời gian qua bị ô nhiễm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động nuôi cá lồng. Tuy nhiên, những kết quả phân tích hiện nay cho thấy môi trường nước đã có những chuyển biến tích cực, đáp ứng được nghề nuôi cá lồng trên địa bàn. Kết quả điều tra cũng cho thấy rằng mặt nước nuôi cá lồng hiện nay chủ yếu do các Chi hội Nghề cá trực tiếp quản lý và UBND xã chịu trách nhiệm cuối cùng. Đứng trên góc độ người nuôi, các hộ được điều tra chưa thực sự quan tâm đến công tác quản lý và bảo vệ môi trường khi 100% hộ nuôi đều xem xét nguồn nước bằng mắt thường và không có phương án xử lý nguồn nước. Xuất phát từ tình hình đó, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như: (i) tăng cường việc lấy mẫu kiểm tra nguồn nước, đưa công tác này đi vào định kỳ; (ii) tích cực vận động hoặc hỗ trợ người dân mua sắm các trang thiết bị nhằm kiểm tra và xem xét nguồn nước; (iii) nâng cao vai trò của các Chi hội Nghề cá trong việc quản lý mặt nước nuôi cá lồng.
ABSTRACT
WATER ENVIRONMENT AND TREATMENT FOR FISH CAGE CULTUREIN CẦU HAI LAGOON, PHÚ LỘC DISTRICT, THỪA THIÊN HUẾ PROVINCE
Through secondary and primary data (by surveying 150 fish cage culture households under proportional stratified random sampling method) the research results indicated that fish cage culture more or less affected the environment due to fish food and scale of rearing fish. Lately, in Phú Lộc District, Thừa Thiên Huế Province, water environment in Cầu Hai Lagoon has been polluted, which seriously affected fish cage activities. Currently, however, analysis of results showed that water environment has changed positively and satisfied the need of fish cage culture in the district. The survey results also showed that Fishing Associations manage directly the water surface for fish cage culture and Commune People’s Committees bear ultimate responsibility. About the rearers, the surveyed households are not really interested in managing and protecting environment as 100% of households visually examine water and do not have any water treatment plan. From the above problems, some comprehensive measures need to be carried out; i.e. (i) taking water sample periodically; (ii) actively mobilizing or supporting households to buy equipments for water examination and testing; (iii) enhancing the role of Fishing Associations in managing water surface for fish cage culture.
điểm /   đánh giá
Phát hành ngày
2017-06-27
Chuyên mục
MÔI TRƯỜNG - SINH THÁI