Đối sánh 06 chương trình đào tạo cử nhân điều dưỡng theo mức độ đào tạo nhân lực trình độ quốc tế

Benchmarking of 06 training programs of bachelor of science of nursing with their levels of internationalisation of education

  • Lưu Nguyễn Đức Hạnh, Phạm Hiếu Liêm, Phan Nguyễn Thanh Vân, Đặng Trần Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Hoàng Yến, Nguyễn Thế Dũng
Từ khóa: Chương trình đào tạo; Cử nhân Điều dưỡng; Đào tạo trình độ quốc tế

Tóm tắt

   Giới thiệu: Đào tạo nhân lực trình độ quốc tế ngành y tế tại TP. Hồ Chí Minh là nhiệm vụ của Đề án thành phần 6 (thuộc Đề án tổng thể đào tạo nhân lực trình độ quốc tế của UBND TP. HCM) mà trong đó các chương trình đào tạo Cử nhân Điều dưỡng (CTĐT CNĐD) được phân tích đối sánh nhằm xác định các điều kiện để đào tạo CNĐD trình độ quốc tế, cũng như để xác định mức độ đào tạo trình độ quốc tế của các CTĐT này.
   Mục tiêu: Đối sánh 06 chương trình đào tạo Cử nhân Điều dưỡng theo mức độ đào tạo nhân lực trình độ quốc tế.
   Phương pháp tiến hành: Lựa chọn, thu thập, lập bảng đối sánh 06 CTĐT CNĐD bao gồm CTĐT 1 của Khoa Điều Dưỡng, trường Đại học Quốc tế Miền Đông, 2 của Khoa Điều Dưỡng, trường Đại Học Y Hà Nội, 3 của Khoa Điều Dưỡng, trường Đại Học Y Dược Thái Nguyên, 4 của Khoa Y Dược, trường Đại học Trà Vinh, 5 của Khoa Điều Dưỡng và Kỹ Thuật Y Học, trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch và 6 của Khoa Điều dưỡng, trường Đại Học Nguyễn Tất Thành để phân tích đối sánh.
   Kết quả: Hai CTĐT CNĐD của trường ĐH Quốc tế Miền Đông và trường ĐH Y Hà Nội (chương trình tiên tiến) do có tăng thời gian đào tạo chung từ 0,5 năm đến 01 năm để tăng cường trình độ ngoại ngữ của người học, đồng thời vừa dạy - học bằng tiếng Việt và tiếng Anh nên đáp ứng hầu hết các điều kiện của CTĐT về cấu trúc, về trình độ ngoại ngữ và về các đặc trưng nhận dạng của nhân lực trình độ quốc tế và do vậy được xem là có Mức độ Sẵn sàng trong đào tạo CNĐD trình độ quốc tế. CTĐT CNĐD của trường Đại học Nguyễn Tất Thành có tăng cường khối lượng kiến thức về Anh ngữ nhằm nâng cao trình độ ngoại ngữ của người học, đồng thời vừa dạy - học bằng tiếng Việt và tiếng Anh nên đáp ứng được một phần của các điều kiện (đã nêu ở trên) và được xem là có Mức độ Thuận lợi trong đào tạo CNĐD trình độ quốc tế. Hai CTĐT CNĐD của trường ĐH Y Dược Thái Nguyên và trường ĐH Trà Vinh (đã đạt chuẩn kiểm định AUN-QA/Asean University Network - Quality Assurance) cũng chỉ đáp ứng được một phần của các điều kiện (đã nêu ở trên) nên được xem là có Mức độ Thuận lợi trong đào tạo CNĐD trình độ quốc tế. CTĐT CNĐD của trường ĐHYK Phạm Ngọc Thạch đáp ứng khá ít các điều kiện (đã nêu ở trên) nên được xem là có Mức độ Chưa sẵn sàng trong đào tạo CNĐD trình độ quốc tế.
   Kết luận: Trong việc đào tạo CNĐD trình độ quốc tế, CTĐT có tăng cường thời gian dạy - học để nâng cao trình độ ngoại ngữ của người học, đồng thời có 1 phần của CTĐT được chuyển tải bằng ngoại ngữ được xem là có Mức độ Sẵn sàng. CTĐT có tăng cường khối lượng kiến thức về ngoại ngữ để nâng cao trình độ ngoại ngữ của người học, đồng thời có 1 phần của CTĐT được chuyển tải bằng ngoại ngữ cùng với các CTĐT đã đạt chuẩn kiểm định quốc tế được xem là có Mức độ Thuận lợi. CTĐT khác với hai loại CTĐT trên thường được xem là có Mức độ Chưa sẵn sàng.

Abstract

   Introduction: Internationalisation of education for medical human resources in Ho Chi Minh City is the responsibility of the Component Project 6 (belongs to “Overall Project of Internalisation of education/training for human resources” of People’s Committee of Ho Chi Minh City) in which Bachelor of Science in Nursing (BSN) training programs are benchmarked in order to identify the necessary requirements of internationalisation of education for BSN nurses, and to identify the level of internationalisation of education of these programs.
   Objective: To benchmark six BSN training programs in order to identify the level of internationalisation of education of these programs.
   Methods: 06 BSN training programs were chosen 1 from Faculty of Nursing - Eastern International University, 2 from Faculty of Nursing - Hanoi Medical University, 3 from Faculty of Nursing - Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy; 4 from Faculty of Medicine and Pharmacy, Tra Vinh University, 5 from Faculty of Nursing and Medical Technology, Pham Ngọc Thach University of Medicine, and 6 from Faculty of Nursing, Nguyen Tat Thanh University. Information about these programs were collected mostly from the official websites of these universities, and the benchmarking table was designed and completed. Then the table was analyzed and benchmarked.
   Results: Two BSN training programs of Eastern International University (EIU) and of Hanoi Medical University (HNU), which have longer time of training (one year with EIU and 0,5 year with HNU), with the purposes of increasing students’ English proficiency and delivery part of the training program in English to students, meet most of the requirements of the program in (1) structure, (2) foreign language proficiency, (3) characteristics of identification of internationalized human resource. They are considered to be of Ready Level in internationalisation of education for BSN nurses. BSN training program of Nguyen Tat Thanh University, which increases the study volume of English language with the purpose of increasing students’ English proficiency
and delivery part of the training program in English to students, together with 02 BSN training programs of Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy and of Tra Vinh University (which have got AUN-QA accreditation certification) meet a part of the above requirements and are considered to be of Favorite Level in internationalisation of education for BSN nurses. BSN training program of Pham Ngoc Thach University of Medicine meets just a small part of the above requirements and is considered to be of Unready Level in internationalisation of education for BSN nurses.
   Conclusion: In the process of internationalisation of education for BSN nurses, those training programs which have longer time of training with the purpose of increasing students’ English proficiency along with delivery of lessons in English, are considered of Ready Level; those which have a bigger study volume of English along with delivery of lessons in English, together with those which have AUN-QA accreditation certifications are considered of Favorite Level; others are considered of Unready Level.

DOI: 10.59715/pntjmp.3.3.3

điểm /   đánh giá
Phát hành ngày
2024-07-20
Chuyên mục
Tổng quan (Review)