Xây dựng phương pháp đánh giá ảnh hưởng của thuốc lên enzym cytochrom P450 3A4 thông qua chuyển hoá nifedipin

  • Phạm Thị Thanh Hà
  • Nguyễn Thị Thanh Nhàn

Tóm tắt

Hệ enzym cytochrom P450 tham gia chuyển hoá hầu hết các thuốc tại gan, trong đó, những isoenzym quan trọng nhất là CYP1A2, 2B6, 2C9, 2C19, 2D6 và đặc biệt là CYP3A4. Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng lên CYP3A4 bằng cách theo dõi mức độ và tốc độ chuyển hoá của một cơ chất điển hình qua CYP3A4 người tái tổ hợp là một cách tiếp cận in vitro khá đơn giản, chi phí hợp lý, vì chỉ cần thiết bị phân tích thông thường để xác định nồng độ cơ chất trong hỗn hợp phản ứng chuyển hoá. Vì vậy, phương pháp này được sử dụng khá phổ biến trên thế giới; nhưng lại chưa phổ biến ở Việt Nam. Hầu hết các nghiên cứu trong nước sử dụng cách tiếp cận in vivo trên động vật thí nghiệm, tức là cho động vật dùng thuốc kéo dài, sau đó cô lập gan và định lượng CYP trong microsome gan. Phương pháp này khá tốn kém thời gian và chi phí, hơn nữa sự cảm ứng hay ức chế CYP trên động vật chưa chắc đã phản ánh đúng với CYP của người. Trong nghiên cứu này, xây dựng một phương pháp đánh giá ảnh hưởng của thuốc lên CYP3A4 với cơ chất nifedipin (NIF). Nifedipin được chuyển hoá mạnh qua CYP3A4 cho sản phẩm chuyển hoá duy nhất là dehydronifedipin, do đó độ tin cậy tốt.

Phương pháp nghiên cứu

Tính khả thi của phương pháp được đánh giá thông qua việc nghiên cứu chuyển hoá của nifedipin qua CYP3A4 và so sánh với các số liệu trong y văn, và sau đó, được thử nghiệm ứng dụng để đánh giá ảnh hưởng của hai thuốc là ketoconazol và erythromycin lên CYP3A4.

Kết luận

            Một phương pháp đánh giá ảnh hưởng của thuốc lên CYP3A4 in vitro đã được xây dựng. Phương pháp này dựa trên việc theo dõi chuyển hoá của NIF, một cơ chất điển hình của CYP3A4. Chuyển hoá của NIF có thể được theo dõi qua sự giảm nồng độ cơ chất NIF hoặc qua nồng độ sản phẩm chuyển hoá DNIF. Phương pháp này đã được ứng dụng để thử nghiệm đánh giá khả năng ức chế CYP3A4 của hai chất là ketoconazol và erythromycin. Các thông số chuyển hoá Km, Vmax của NIF cũng như hệ số ức chế Ki của KET và ERY xác định được khá thống nhất với các tài liệu đã công bố. Tuy loại hình nghiên cứu chuyển hoá in vitro này đã được ứng dụng nhiều ở nước ngoài, nhưng ở Việt Nam, đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên ứng dụng mô hình này, đặc biệt là với nguồn CYP3A4 của microsome gan người tái tổ hợp, một nguồn enzym có thể cho kết quả dự đoán tốt cho tương tác thuốc in vivo.

điểm /   đánh giá
Phát hành ngày
2015-08-25
Chuyên mục
BÀI BÁO