Phân tích đồng thời acid ferulic, scopoletin và xanthotoxin trong đương qui di thực bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao kết nối detector huỳnh quang (HPLC-FLD)

  • Dương Thu Hương
  • Nguyễn Thị Hà Ly
  • Phương Thiện Thương

Abstract

Đương qui Nhật Bản Angelica acutiloba (Sieb. Et Zucc.) Kit. hay còn gọi là đương qui di thực (ĐQDT) có thành phần hóa học chính của rễ gồm các phthalid (ligustilid, butylphthalid), coumarin (SC, umberlliferon) và furanocoumarin (XA, prosalen), polysaccharid, acid hữu cơ... Tuy nhiên, các nghiên cứu về tiêu chuẩn hóa chất lượng dược liệu ĐQDT đều tập trung vào các hợp chất phthalid, đặc biệt là Z-ligustilid, chưa quan tâm nhiều đến các hợp chất coumarin. Chuyên luận ĐQDT trong DĐVN IV có các chỉ tiêu với phương pháp phân tích có độ chính xác không cao, gây hạn chế trong công tác kiểm tra chất lượng ĐQDT. Năm 2012, Viện Dược liệu đã xây dựng và nâng cấp các tiêu chuẩn cơ sở cho dược liệu và sản phẩm từ ĐQDT, trong đó có bổ sung chỉ tiêu định tính, định lượng hoạt chất chính Z-ligustilid. Tuy nhiên, Z-ligustilid là hợp chất có trong tinh dầu và dễ bay hơi, hàm lượng của Z-ligustilid trong ĐQDT không ổn định, nếu sử dụng chỉ tiêu này thì có thể kết luận sai về chất lượng dược liệu và sản phẩm chứa ĐQDT. Do vậy, nhóm nghiên cứu đã tiến hành xây dựng phương pháp định tính, định lượng đồng thời hai coumarin (SC, XA) và AF trong rễ ĐQDT nhằm tạo cơ sở cho việc nâng cấp tiêu chuẩn dược liệu và sản phẩm chứa ĐQDT.

Phương pháp nghiên cứu

- Thiết bị: HPLC-LC 20AD (Shimadzu), bộ tiêm mẫu SIL-20AHT, detector huỳnh quang 20Axs, phần mềm Labsolution để truy xuất hình ảnh, số liệu.

- Đánh giá phương pháp phân tích: Phương pháp phân tích được đánh giá về tính thích hợp của hệ thống, tính tuyến tính, độ lặp lại, độ thu hồi, giới hạn phát hiện (LOD) và giới hạn định lượng (LOQ).

- Ứng dụng trong phân tích định lượng các mẫu ĐQDT: Xác định hàm lượng AF, SC và XA trong các mẫu ĐQDT, mỗi mẫu được phân tích lặp lại 03 lần.

Kết luận

Đã xây dựng được phương pháp định lượng đồng thời AF, SC và XA trong ĐQDT bằng kỹ thuật HPLC-FLD với độ lặp lại tốt, độ nhạy và độ chính xác cao. Chúng tôi cũng tiến hành phân tích các chất này trong một số mẫu ĐQDT khác nhau. Hàm lượng AF trong các mẫu ĐQDT nằm trong khoảng từ 10 ppm đến 45 ppm, hàm lượng SC đạt từ 31 ppm đến 110 ppm và hàm lượng XA đạt từ 35 ppm đến 47 ppm. Với các kết quả thu được, nhóm nghiên cứu đề xuất bổ sung chỉ tiêu định lượng SC và chỉ tiêu định tính với các chất đánh dấu (SC, XA, AF) trong các tiêu chuẩn dược liệu, sản phẩm từ ĐQDT nhằm nâng cao công tác kiểm tra chất lượng dược liệu ĐQDT ở Việt Nam.

điểm /   đánh giá
Published
2015-10-15
Section
ARTILES