Các hợp chất triterpenoid từ cây bục nâu (Mallotus mollissimus (Geisel.) Airy-Shaw)

  • Phan Minh Giang
  • Ngọ Thị Thu Huyền
  • Phan Tống Sơn

Tóm tắt

Chi Mallotus (họ Euphorbiaceae) có sự đa dạng sinh học và cấu trúc hóa học. Phạm Hoàng Hộ (năm 1999) đã thống kê 33 loài Mallotus của Việt Nam. Các nghiên cứu trong khoảng 30 năm cho thấy các loài Mallotus sinh tổng hợp các chất chuyển hóa thứ cấp thuộc các nhóm terpenoid, steroid, flavonoid, benzopyran, coumarinolignoid và phloroglucinol; các chất này cho một phổ rộng các hoạt tính sinh học hữu ích như chống ung thư, bảo vệ gan, chống oxy hóa... Cây bục nâu (M. mollissimus (Geisel.) Airy-Shaw, syn. M. ricinoides (Pers.) Müll-Arg.) của Việt Nam chưa được nghiên cứu về thành phần hóa học nhưng đã có một số công bố về hoạt tính chống oxi hóa và kháng ký sinh trùng Leismania của M. mollissimus. Bài báo này lần đầu tiên công bố các kết quả phân lập và xác định cấu trúc của 4 chất triterpenoid và b-sitosterol từ lá cây bục nâu.

Phương pháp nghiên cứu

- Chiết xuất và phân lập: Dung môi chiết là methanol. Sử dụng sắc ký cột thường và sắc ký cột tinh chế để phân lập các chất.

- Xác định cấu trúc các chất phân lập được dựa vào các dữ liệu: IR, 1H-NMR, ESI-MS.

            Kết quả nghiên cứu

            Đã  phân lập và xác định được cấu trúc của 4 hợp chất triterpenoid là taraxerol, acid oleanolic, taraxeron, epitaraxerol và b-sitosterol từ lá cây bục nâu (Mallotus mollissimus (Geisel.) Airy-Shaw). Sự phát hiện các chất taraxeran đặc biệt là cặp epime taraxerol/epitaraxerol có thể đáng chú ý về sự phân loại thực vật theo hóa học của các loài Mallotus; cặp epime này mới chỉ được phát hiện đồng thời trong M. apeltaM. macrostachyus. Các terpenoid-steroid này là các thành phần chính và có thể xác định hoạt tính sinh học của nhóm chất lipid ít phân cực trong lá cây bục nâu.     
điểm /   đánh giá
Phát hành ngày
2016-10-14
Chuyên mục
BÀI BÁO