Hai dẫn xuất α-truxillic acid và sulphated flavonoids được phân lập từ cao dichloromethan của cây an xoa (Helicteres hirsuta Lour.)
Tóm tắt
Cây an xoa (còn gọi là cây tổ kén cái, cây dó lông) có tên khoa học là Helicteres hirsutaLour., thuộc họ Trôm (Sterculiaceae). Theo kinh nghiệm trong dân gian thì rễ và lá của cây an xoa được sử dụng làm thuốc: rễ được dùng để chữa lỵ, sởi, cảm mạo, tiểu dắt và làm thuốc tiêu độc; lá được dùng ngoài để chữa mụn nhọt, sưng lở. Từ hoạt tính kháng tế bào ung thư gan khá cao của các nghiên cứu trước đây cũng như các công dụng chữa bệnh về gan trong các bài thuốc trong dân gian Việt Nam của cây an xoa, tiếp tục tiến hành nghiên cứu thành phần hóa học của cây an xoa nhằm góp phần giải thích rõ ràng hơn công dụng chữa bệnh của loài thảo dược này.
Đối tượng
Thân, lá và hoa cây an xoa được thu hái ở Hòn Sơn, xã Lại Sơn, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chiết hoạt chất: Ngâm chiết với ethanol 96%.
- Phân lập các hợp chất: Sử dụng phương pháp sắc ký cột.
- Xác định cấu trúc của các hợp chất: Bằng các phương pháp phổ nghiệm: IR, 1H-NMR, 13C-NMR, DEPT, HSQC, HMBC, MS.
Kết quả
Từ 200 g cao tổng (ethanol) tiến hành tách phân đoạn bằng kỹ thuật phân bố lỏng-lỏng thu được 20,85 g cao dichloromethan. Từ 8 g cao dichloromethan tiến hành sắc ký cột pha thường và phân lập được 2 hợp chất HD07 và HD10d. Dựa vào số liệu phổ 1D, 2D-NMR, MS và đối chiếu với các tài liệu tham khảo đã nhận danh được 2 hợp chất HD07 và HD10d lần lượt là: α-p-hydroxy truxillic acid và 7,4'-di-O-methyl-8-O-sulphat isoscutellarein.